Russell 2000 là một chỉ số ghi lại hiệu suất cổ phiếu của 2.000 công ty giao dịch công khai nhỏ hơn tại Mỹ.
Các công ty thuộc mọi quy mô đều quan trọng. Và Russell 2000 quan tâm đến các công ty quy mô “nhỏ”. Kể từ năm 1984, chỉ số thị trường chứng khoán này đã theo dõi hiệu suất cổ phiếu của 2.000 công ty giao dịch công khai với quy mô nhỏ có trụ sở tại Mỹ. Chỉ số được tính trọng số theo vốn hóa thị trường, tập trung vào các công ty “vốn hóa nhỏ” (thường có vốn hóa thị trường từ 300 triệu USD đến 2 tỷ USD) chiếm hơn 90% tổng số công ty trên thị trường chứng khoán Mỹ. Do đó, Russell 2000 đóng vai trò như một bức ảnh chụp nhanh những gì đang xảy ra với cổ phiếu của các công ty nhỏ hơn – và thường được sử dụng làm điểm chuẩn để các quỹ tương hỗ tập trung vào các công ty vốn hóa nhỏ so sánh hiệu suất của họ với hiệu suất của thị trường nói chung.
Chỉ số chứng khoán Russell 2000 được tạo thành từ một số công ty giao dịch công khai nhỏ nhất của Mỹ – một ví dụ được chọn ngẫu nhiên là Loral Space & Communications Inc, có trụ sở chính tại New York, NY, hoạt động từ năm 1996. Tính đến tháng 5 năm 2022, công ty truyền thông vệ tinh này đã có giá trị vốn hóa thị trường dưới 900 triệu USD, giá trị của một cổ phiếu Russell 2000 điển hình.
Chỉ số này không chỉ tập trung vào một quy mô công ty cụ thể (vốn hóa thị trường nhỏ, thường dưới 2 tỷ USD), mà còn có phạm vi bao phủ rất lớn so với các chỉ số khác (chỉ số Dow theo dõi 30 công ty và S&P 500 theo dõi 500 công ty). Với đặc điểm và phạm vi bao phủ rộng này, Russell 2000 có thể làm nổi bật hiệu suất của các công ty nhỏ hơn so với thị trường rộng lớn hơn (so với chỉ số S&P 500) hoặc thậm chí là lĩnh vực công nghệ (so với chỉ số Nasdaq Composite).
Russell 2000 đã ra đời vào năm 1984 dưới sự quản lý của công ty Frank Russell. 2.000 cổ phiếu trong chỉ số đã được chọn từ một chỉ số thậm chí còn lớn hơn, Russell 3000 – Vì vậy, Russell 2000 thực sự là 2.000 công ty nhỏ nhất trong Russell 3000. Mặc dù Russell 2000 chiếm phần lớn cổ phiếu trong Russell 3000, vốn hóa thị trường của các công ty trong chỉ số nhỏ hơn chỉ đại diện cho ít hơn 10% vốn hóa thị trường của chỉ số Russell 3000.
Sau đó vào những năm 1980, công ty đã giới thiệu thêm các chỉ số khác tập trung vào vốn hóa nhỏ để cung cấp thêm góc nhìn về các chuyển động chung của thị trường, như chỉ số Russell 1000. Hiện nay, chỉ số này được duy trì bởi FTSE Russell, một công ty con của Sở giao dịch chứng khoán London.
Mục đích của Russell 2000 là cô lập và tập trung vào các công ty giao dịch công khai nhỏ hơn – chiếm phần lớn các cổ phiếu được giao dịch công khai tại Mỹ: 98% trong số đó. Như chính Russell Index thích nói, chỉ số này được “thiết kế để cung cấp một cái nhìn toàn diện và khách quan về thị trường vốn hóa nhỏ của Mỹ”. Nhìn chung, với quy mô của Russell 2000 (một lần nữa, 2.000 cổ phiếu) và sự tập trung của chỉ số vào các công ty nhỏ hơn, nhiều công ty được bao gồm trong chỉ số có thể ít được các nhà đầu tư và những người bình thường biết đến hơn.
Dưới đây là một số điểm nổi bật về những công ty được bao gồm trong Russell 2000 (hay còn gọi là các thành phần của chỉ số) tính đến tháng 2 năm 2022:
Bộ bốn chỉ số cốt lõi này là những chỉ số phổ biến nhất được các nhà đầu tư sử dụng, tham khảo trên TV hoặc đơn giản là được thảo luận khi bất kỳ ai muốn biết về tình hình thị trường. Chúng ta vừa mới đề cập đến Russell 2000 tập trung vào các công ty vốn hóa nhỏ, nhưng mỗi chỉ số trong ba chỉ số còn lại đều có những điểm khác biệt chính mà bạn nên ghi nhớ:
Để biết bạn đang làm tốt đến mức nào trong bất kỳ điều gì, bạn cần có một điểm chuẩn để so sánh – Russell 2000 chính xác là điểm chuẩn đó đối với nhiều quỹ tương hỗ vốn hóa nhỏ. Các quỹ tương hỗ tập trung vào vốn hóa nhỏ cần phải đánh giá hiệu suất của họ; vì vậy, họ có thể sử dụng Russell 2000 làm điểm chuẩn để so sánh vì chỉ số này đại diện cho các chuyển động chung của toàn bộ các cổ phiếu công ty đại chúng vốn hóa nhỏ.
So sánh với điểm chuẩn là một cách để bạn đo lường hiệu suất của mình, và đây là một phương pháp phổ biến đối với các quỹ tương hỗ. Các nhà quản lý quỹ kiếm được một khoản phí quản lý khi chuyển tiền của nhà đầu tư vào các khoản đầu tư mà họ hy vọng sẽ mang lại lợi nhuận cao. Để xác định xem họ có đang làm việc tốt hay không, một nhà quản lý quỹ cần biết liệu họ có đang hoạt động tốt hơn thị trường chứng khoán nói chung hay không. Các nhà quản lý quỹ tương hỗ tập trung vào các cổ phiếu vốn hóa lớn có thể so sánh hiệu suất của họ với chỉ số S&P 500. Đối với các quỹ tập trung vào các cổ phiếu vốn hóa nhỏ, một nhà quản lý quỹ có thể so sánh hiệu suất của họ với Russell 2000.
Huân Hà – theo learn.robinhood.com